精欲精身
神成神体
更大在在
要事獄獄
大業外中
(Vô đề)
Thân thể
tại ngục trung
Tinh thần tại ngục ngoại
Dục thành đại sự nghiệp
Tinh thần cánh yếu đại.
(Người dịch
không rõ)
(Không đề)
Một trong
số 60 bài về “Nhật Ký Trong Tù”
đăng trong một cuốn sách là của
tác giả Trần Dân Tiên (chính là Hồ Chí Minh),
giới thiệu về “Cụ Hồ thời gian
ở tù bên Trung Quốc”.
Mặc dù
người viết bài này cũng như không mấy ai được
xem trọn vẹn bản gốc vì bản gốc cũng
giống như “Di Chúc Hồ Chí Minh” hầu như không
được phổ biến đầy đủ để tha hồ tuyên truyền
tùy theo tình hình. Nhưng qua những
gì chúng ta biết được, cũng có thể thấy
hàng chục điều chứng tỏ Hồ Chí Minh không phải
là tác giả của tập thơ. Cuốn sổ tay được nói là gồm phần đầu
là thơ với 53 trang và phần
sau ghi chép cũng bằng chữ Hán, nhưng nét bút khác hẳn và có thêm chú
thích tiếng Việt và Pháp.
Cuốn này nguyên từ Tung Quốc
lưu lạc qua Việt Nam, hay HCM mang về, bị bỏ
quên ở chỗ nào đó, sau mới được lôi ra
và trao cho trách nhiệm đánh bóng HCM… theo đúng tinh thần
cực kỳ tự ái, luôn muốn tự đề cao và muốn người
khác lầm tưởng mà đề cao mình của HCM.
Ngục Trung Nhật Ký trên
Wikipedia
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADt_k%C3%BD_trong_t%C3%B9
BBC
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2005/05/050520_nhatkytrongtu.shtml
Nét bút của người
Hoa, nhưng còn non, chưa cứng lắm.
“Ngục Trung Nhật
Ký” được nói là của Hồ
Chí Minh viết lúc bị tù lần thứ 2 ở Quảng
Tây.
Nhưng ít nhất hàng chục dữ kiện về nét bút
và nội dung cho thấy cuốn sách này của một
người Hoa, bìa sách ghi thời gian ở tù và sáng tác là:
29.8.1932
10.9.1933
(hơi nghiêng trái\, dùng chấm “.” và không có gạch nối
“-” giữa 2 ngày), được thêm ngày bị giam “theo Hồ
Chí Minh nói hay viết” ở bìa sau:
-
(nghiêng
phải /, dùng gạch nối “-” và có gạch nối “-” giữa
2 ngày) với nét bút khác.
Do đó, thời gian bị giam cũng có thể
đã được chế ra, ghi cho hợp với bìa
trước cuốn sách chứ không thật, chỉ sai biệt
đúng 10 năm cho tạm hợp với năm tù thật?
2 nét bút rõ ràng khác nhau 1 bên nghiêng từ trái
qua phải,
1 bên nghiêng từ phải qua trái, một
bên dùng chấm, 1 bên dùng gạch ngang.
Xem
trang nhà:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/08/080820_hoangtranh.shtml
So với nét bút khi Hồ Chí Minh viết thư cho vợ
người Hoa là Tăng Tuyết Minh năm 1928 (bên phải)
thì nét bút đã rất cứng, rất tới, chứng tỏ
cũng rành chữ Hán (như vậy là văn hóa giật lùi!?).
Để dễ nhận
biết, so với chữ “trung” (中) nét vuông và ngang trên thì
trong lưu bút tại Bắc Kinh năm 1968 (Việt-Trung hữu nghị,
Vạn cổ trường thanh.) (bên
trái) và các nơi khác đều với chữ nét tròn và
nghiêng… thì khác hẳn.
Có thể xem thêm về chữ Hán cuốn “Chủ Tịch Hồ
Chí Minh Bút Danh &
Bút Tích”, nhà xuất bản Văn Hóa - Thông
Tin, ngày
- Trích bìa “Bản Án Chế
Độ” viết năm 1921, xuất bản năm 1925.
-
Trích thư báo cáo về việc lập Chính Phủ
Lâm Thời gửi Trần Tướng Quân (Trung Quốc)
ngày
Hồ Chí
Minh lấy sách của người ta đưa cho đàn em
in, nhưng khi được hỏi không dám khẳng định
là của mình.
Trong khi đàn em và đám bồi bút cứ thế
nhắm mắt ca tụng. Những dữ kiện cho
thấy của người khác qua việc Hồ Chí Minh với
bút danh Trần Dân Tiên viết về chuyện bị bắt
giam.
- - - - -
Là người Việt Nam, một đảng
viên CS quốc tế, thế mà không thấy trong tập thơ
nói gì tới đất nước và chủ nghĩa CS cả,
mà lại nói về Trung Hoa Quốc Dân Đảng!? Tập
thơ phải là một người Hoa theo
Quốc Dân Đảng nhưng vì lý do nào đó bị bắt.
Ba bài đầu trong Nhật Trung Nhật Ký
Khai quyển
Về Một Số Bài Thơ
Bài 2, Khai Quyển (Mở đầu tập nhật ký), tác giả tự
xưng là Lão Phu, chỉ người già, khi đó Hồ Chí
Minh khoảng 51-52 tuổi, chưa thể tự coi mình là
“lão phu”. Dịch giả chỉ dám dịch là
“ta” trống không.
Bài 5, Thế Lộ Nan (Đường đời hiểm trở), có thật bài này
hay 4 câu giữa nằm trong Ngục Trung Nhật Ký không, hay
được thêm vào vì cả 133+1 bài mà không bài nào nói tới
Việt Nam thì kỳ?
Thế Lộ
Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham
Na tri bình lộ cánh nan kham
Cao sơn lộ hổ chung vô dạng
Bình lộ phùng nhân khước bị
giam.
Dư nguyên đại biểu Việt
Nam dân
Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu
nhân
Vô nại phong ba bình địa khởi
Tống dư nhập ngụ tác gia tân
Trung thành ngã bản vô tâm cứu
Khước bị hiềm nghi tố
Hán gian
Xử thế nguyên lai phi dị dị
Nhi kim xử thế cánh nan nan.
(Nam Trân dịch)
Đường
đời hiểm trở
Đi khắp đèo cao, khắp núi cao,
Ngờ đâu đường phẳng
lại lao đao!
Núi cao gặp hổ mà vô sự,
Đường phẳng gặp
người bị tống lao?!
Ta là đại biểu dân Việt
Nam,
Tìm đến Trung Hoa để hội
đàm;
Ai ngỡ đất bằng gây sóng
gió,
Phải làm “khách quý” ở nhà giam!
Ta người ngay thẳng, lòng trong
trắng,
Lại bị tình nghi là Hán gian;
Xử thế từ xưa không phải dễ,
Mà nay, xử thế khó khăn
hơn.
Có nhiều thể thơ, hầu hết các
bài trong tập này thuộc thể “Ngũ ngôn”, “Tứ tuyệt”,
“Thất ngôn bát cú”… nhưng đây là bài duy nhất thuộc
thể “Thất ngôn thập nhị cú” tác giả viết? Tác giả nếu là người
Việt sao lại bị coi là “Hán gian”, tại sao bài 42 Nhai
Thượng cũng lập lại chuyện “Hán gian” này!?
Theo tác giả Tâm Việt: “Trong bài “Thế
lộ nan”, tác giả có đề cập đến từ
Việt. Đối với người Quảng: Quảng
Đông, Quảng Tây... Tiếng của họ
được gọi là “Việt ngữ” (粵語)
và đất của họ được gọi là Việt
địa, Yue. Việt cũng là đất
của Việt Vương Câu Tiễn, Việt địa
cựu sơn hà. Tại Trung Quốc, tiếng Quảng
Đông còn được gọi là "Việt ngữ"
vì hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, nguyên trước
là đất của dân tộc Bách Việt (百粵), nên họ gọi hai tỉnh ấy là tỉnh
Việt.”.
Nhất là Quảng Đông, bảng
số xe tỉnh này đều bắt đầu
bằng “粵”. Cũng có khi họ
dùng越.
Họ gọi chung người Việt
- - - - -
Tiến
Sĩ Đinh Thế Dũng ở
Theo thiển ý, anh
đưa 3 nhận xét mới cần lưu ý:
1- Cần có bản
chính gồm đủ mọi bài và bút tự để kiểm
chứng.
2- Nhận xét về
bút tự từng trang, so sánh với bút tự mà Hồ Chí
Minh đã viết (chữ Hán, và số) ở những nơi
khác.
3- Bài Thế Lộ
Nan rất đặc biệt: Bài này là bài duy nhất nói rõ tư
cách đại biểu Việt Nam, thế nhưng rất lạ
vì thể thơ toàn cuốn hình như là thể thơ Trung
Hoa (tứ tuyệt là nhiều nhất), và bài này mà ở thất
ngôn bát cú thì đúng là thể thơ người Trung Hoa miền
Nam (những vùng Quảng Đông & Quảng Tây... rất
thích). Thử bỏ đi 4 câu giữa, ý thơ đi xuyên
suốt và 1 vần, câu 3 đối câu 4, câu 5 đối câu
6.
Kết luận: Nếu
đây là bài thơ 8 câu 7 chữ thì chỉnh lắm. Cần phải có bản chính để đối
khảo nét chữ.
Bài thơ 3 đoạn
4 câu 7 chữ, không chung vần từ
đoạn này qua đoạn khác (kiểu
Trong bài Thế Lộ
Nan, đoạn mà tỏ rõ "danh nghĩa" Việt Nam
nhất cần phải suy xét thật kỹ, không biết
có thêm vào không. Đọc kỹ 4 câu chót, đây là khẩu
khí của một người than thở về cách đối
xử với đồng bào, hàng xóm, chỗ thân quen (vì vậy
mới đem chuyện xử thế, nôm na
là ăn ở ngày xưa và ngày nay). Nếu là một ông
đại biểu VN thì lại "lãng xẹt" về
cả nội dung đến hình thức!
Khi
- - - - -
Bài 40, Lạc Liễu Nhất
Chích Nha (Rụng mất một
chiếc răng), Hồ Chí Minh chưa già làm gì mà rụng răng, hình ảnh nào Hồ Chí Minh sún
răng không?
Bài 42, Nhai Thượng
(Trên đường phố), Hồ Chí Minh là
người Việt thì sao bị coi là “Hán Gian”?
Nhai Thượng
Nhai thượng nhân tranh khán Hán gian
Hán gian dữ ngã bản vô can
Vô can nhưng thị hiềm nghi phạm
Sử ngã tâm trung giác điểm hàn.
(Nam
Trân dịch)
Trên đường
phố
Ngoài phố tranh nhau xem Hán gian,
Hán gian, ta vốn thực vô can;
Vô can vẫn bị nghi là có,
Thực khiến lòng ta lạnh tới gan.
Bài 5 Thế Lộ
Bài 44, Trưng Binh
Gia Quyến (Gia quyến bị bắt
lính),
nhà Hồ Chí Minh đâu có ai bị trưng binh đâu mà đem
tâm tình ấy ra than thở?
Trưng Binh Gia Quyến
Lang quân nhất khứ bất hồi đầu
Sử thiếp khuê trung độc bão sầu
Đương cục khả liên dư tịch mịch
Thỉnh dư lai tạm trú lao tù.
(Nam Trân dịch)
Gia quyến người bị
bắt lính
Biền biệt anh đi không
trở lại,
Buồng the trơ trọi, thiếp ôm sầu;
Quan trên xót nỗi em cô quạnh,
Nên lại mời em tạm ở tù.
Bài 59, Thụy Bất Trước
(Không ngủ được) có câu: “Mộng hồn
hoàn nhiễm ngũ tiêm tinh”, nên dịch là “Sao năm cánh nhọn mộng hồn
quanh”, tại sao Nam Trân lại
dịch là: “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh?”. Đâu có chữ
nào nói tới màu vàng, đây là lối dịch của văn
nô, gượng ép kéo bài thơ vào chuyện Việt
Thụy Bất Trước
Nhất canh... nhị
canh... hựu tam canh,
Triển chuyển, bồi hồi, thụy bất thành;
Tứ, ngũ canh thì tài hợp nhãn,
Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh.
(Nam
Trân dịch)
Không ngủ được
Một canh... hai canh... lại
ba canh,
Trằn trọc băn khoăn, giấc chẳng thành;
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt,
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.
Theo tác giả Tâm Việt: “Trong bài Thụy Bất Trước, câu "Mộng
hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh" 夢魂環繞五尖星
(The
dream-soul surrounds with five sharp stars), ý của tác giả là bày tỏ
giấc mơ may mắn cho mình và thịnh vượng cho tổ
quốc mình.
Thật vậy,
trong Sấm Trạng Trình, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có
câu: “Năm Giáp Tý vẻ khuê đã rạng - Lộ
ngũ tinh trinh tượng thái hanh.”. Biểu
tượng ngũ tinh là điềm may mắn mưa thuận
gió hòa, nhân tình yên ổn.”.
Như trong cuốn
“Kỷ Niệm 100 Năm Phong Trào Đông Du” của chúng tôi đã
trình bày, cờ của
Việt Nam Quang Phục Hội do cụ Phan Bội Châu lãnh
đạo đã dùng hình ảnh “Ngũ
Tinh Liên Châu” (4 chấm tròn trắng tại 4 góc hình chữ
nhật và 1 chấm tròn ở giữa lien kết với
nhau bằng 2 đường chéo), đó là hiện tượng
đặc biệt cứ một chu kỳ 60 năm (một
hội) thì cả 5 ngôi sao nổi tiếng Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa Thổ tuy quay theo qũy đạo khác nhau, tốc
độ khác nhau, nhưng cùng đứng về một
phía. Theo quan niệm Đông Phương, đó là biểu
tượng kỳ diệu và may mắn. Vậy “ngũ
tiêm tinh”
không phải là “sao
5 cánh” mà là “5 ngôi sao nhọn“.
Bài 61, Thế Nan Hữu Mẫn
Tả Báo Cáo (Viết hộ báo cáo cho
các bạn tù), Hồ Chí Minh là người Việt đi viết
đơn tiếng Hoa cho người Hoa sao lạ vậy?
Thân thế của tác giả cũng
được biểu lộ, là người có đủ
kiến thức về luật pháp để viết các
đơn kiện cho các bạn tù, với sách luật có sẵn
để tra cứu... "Phụng Thử", "Đẳng Nhân" (là đồng
đẳng)
trong tư pháp, hành chính vừa mới học, chứ
không có nghĩa "thừa
lệnh" như dịch giả viết.
Thế
Đồng chu cộng tế
nghĩa nan từ,
Thế hữu biên tu báo cáo thư;
"Phụng thử", "đẳng nhân" kim thủy
học,
Đa đa bác đắc cảm ân từ.
(Nam Trân dịch)
Viết hộ báo cáo cho các bạn
tù
Cùng hội cùng thuyền nên phải giúp,
Viết thay báo cáo dám từ nan;
"Chiểu theo", "thừa lệnh"
(?)nay vừa học,
Đã được bao lời bạn cảm ơn.
Bài 64, Song Thập Nhất (11-11), Hồ Chí Minh bị
quân Tưởng Giới Thạch bắt thì mắc mớ
gì nhớ ngày chấm dứt Thế Chiến Thứ 1 (1914-1918), cuộc kháng chiến chống
phát xít Nhật xâm lược của nhân dân Trung Quốc,
tính từ ngày 7-7-1937 đến cuối năm 1942 là gần
6 năm và
hô hào quân Trung Hoa phản công quân Nhật này…
Bài 74, Ngục
Đinh Thiết Ngã Chi Sĩ Đích (Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy
của ta), Hồ Chí Minh khoảng 51-52 tuổi thì làm gì
đã chống gậy sớm vậy? Ai lại
cho phép đem gậy vào trong tù trừ khi người đó
quá già yếu, không thể tự đi lại được?
Ngục Đinh Thiết
Ngã Chi Sĩ Đích
Nhất sinh chính trực hựu
kiên cương,
Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương;
Hận bỉ gian nhân ly ngã lưỡng,
Trường giao ngã nhĩ các thê
lương.
(Nam Trân dịch)
Lính ngục đánh cắp mất
chiếc gậy của ta
Suốt đời ngay thẳng
lại kiên cường,
Dìu dắt nhau đi mấy tuyết
sương;
Giận kẻ gian kia gây cách biệt,
Hai ta dằng dặc nỗi buồn thương.
Theo tác giả Tâm Việt: “Chiếc gậy đã là bạn đồng hành của
tác giả qua bao nhiêu năm dài. (Huề thủ đồng
hành kỷ tuyết sương), chứng tỏ
tác giả già yếu từ lâu, mà chiếc gậy này chắc chắn
không phải là chiếc gậy thường vì giá trị của
nó đi với uy thế của tác giả - đó là sự
chính trực và kiên cường của vị quan thanh liêm.
(Nhất sinh chính trực hựu kiên cương).”.
Thất Cửu
Nhân vi
ngũ tuần thường thán lao?,
Ngã kim
thất cửu chinh khang cường,
Tụ cung thanh đạm
tinh thần sảng,
Tố sự thung dung nhật nguyệt trường.
(Xuân Thủy dịch)
Sáu mươi ba tuổi
Chưa năm mươi
tuổi đã than già,
Sáu ba, mình vẫn
nghĩ là đương trai,
Sống quen thanh đạm
nhẹ người,
Việc
làm tháng rộng ngày dài ung dung.
Bài 90, Tứ Cá Nguyệt Liễu
(Bốn tháng rồi), Hồ Chí Minh
đã già đâu mà nói răng rụng mất một chiếc,
nhất là tóc bạc thêm mấy phần, tức đã bạc
và nay bạc thêm nhiều?
Tứ cá nguyệt
liễu
…
Lạc
liễu nhất chích nha,
Phát bạch liễu hứa đa,
Hắc sấu tượng ngã quỷ,
Toàn thân thị lại sa.
…
(Nam Trân
dịch)
Bốn
tháng rồi
…
Răng
rụng mất một chiếc,
Tóc bạc thêm mấy phần,
Gầy đen như quỷ đói,
Ghẻ lở mọc đầy thân.
…
Bài 98, Mộng Ưu Đãi (Được
ưu đãi),
qua bạn bè và liên hệ quyền
thế, chúng ta có thể biết địa vị chức
vụ của tác giả. Trong khi HCM viết thời kỳ này là bị cùm
gông, lê lết…
Mộng
Ưu Đãi
Ngật câu phạn thái, thụy câu
chiên
Hựu cấp linh tiền mãi báo, yên
Chủ nhiệm Lương công ưu đãi ngã
Ngã tâm cảm khích bất thăng ngôn
(Huệ
Chi dịch)
Được ưu đãi
Ăn có cơm rau, ngủ có mền
Báo xem, thuốc hút: cấp cho tiền
Ông Lương chủ nhiệm đãi ta hậu
Cảm kích lòng ta, chẳng nói nên.
HCM từng
kể trong cuốn “Những Mẩu
Truyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ
Chủ Tịch” là lần ở tù này bị cùm
gông, lê lết cơ mà!? Và không hề có chỗ
nào viết là đã từng làm cả tập thơ trong tù
Quảng Tây cả.
Theo tác giả Tâm Việt: “Tác giả là một viên chức của TH
Quốc Dân Đảng nên trong thời gian bị nghi ngờ
vẫn được quyền lợi hơn hẳn những
người tù bình thường. Ông cũng ca ngợi
đưa chi tiết tài đánh giặc từ Hồ Nam,
Chiết Giang, Miến Điện đến Vân Nam của
tướng bạn và vui mừng khi bạn được
thăng chức tướng, bài 109 (Lương Hoa Thịnh
Tướng Quân Thăng Nhậm Phó Tư Lệnh). Khi ở tù, ông cũng được các viên chức
đến thăm viếng, bài 102 (Ngũ khoa trưởng,
Hoàng khoa viên).
Với sự
quen biết thân thiết với tướng Lương Hoa
Thịnh, ông đã có giọng văn kẻ cả với
đàn em đệ tử của vị tướng này, bài
110 (Tặng Tiểu Hầu (Hải)) trong câu "Vô phụ
Lương công giáo dục tình". Thêm nữa qua câu
"Thượng trung đảng, quốc, hạ trung
dân", chúng ta biết tác giả đảng viên đã sống
theo câu nói này mà truyền lại cho
người nghe là Tiểu Hầu.
Vì
là bạn thân lâu đời của tướng Lương
Hoa Thịnh nên tác giả được cung cấp mọi
nhu cầu từ kinh tế đến tư tưởng. Vì biết
nhau đã lâu nên các chiến công đánh
Bài 91, "Bệnh Trọng" (Ốm nặng). Theo tác giả Tâm Việt: “Tác giả đã ví thân thể mình như là
nơi của cuộc chiến như tại đất Việt
xưa, nơi Ngô-Việt giao tranh. Thường thường,
bị bệnh vì khi bên trong tâm sinh lý không vững chãi thì một
cơn gió lạnh hoặc một trận nóng ngắn
cũng làm dao động cơ thể thành bệnh nặng.
Nột thương ngoại cảm là danh từ
thường được dùng để chỉ bệnh
chứng như thế nào. Nội thương có thể
là nhớ nhà, uất hận, buồn chán, tâm bệnh như
tương tư hoặc ăn uống thiếu thốn
nên cơ thể suy nhược - còn ngoại cảm là bị
thời tiết, nơi ở, môi trường chung quanh ảnh
hưởng. Người dịch
“Nội
thương Việt địa cựu sơn hà”, theo nghĩa đen là trong lòng nhớ
thương đất Việt (chỉ Quảng Đông -
Quảng Tây) núi sông xưa.
“Ngoại
cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt”, nghĩa là còn bây giờ là
Trung Hoa với cái cảm lạnh của khí trời mà thành
bệnh. Ông so sánh quá khứ đất
cũ là Việt địa và bây giờ là đất Trung
Hoa.”.
Bệnh Trọng
Ngoại cảm Hoa thiên
tân lãnh nhiệt,
Nội thương Việt địa cựu sơn hà;
Ngục trung hại bệnh chân tân khổ,
Bản ưng thống khốc khước cuồng ca.
(Nam
Trân dịch)
Ốm nặng
"Ngoại cảm"
trời Hoa cơn nóng lạnh,
"Nội thương" đất Việt cảnh lầm
than;
Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn!
Cũng theo tác giả Tâm Việt: “Việt Nữ Kiếm 越女劍 (Sword of
the Yue Maiden) là một câu chuyện của Kim Dung do một
người Trung Hoa viết, nếu không hiểu đầu
đuôi, mọi người Việt Nam cũng tưởng
là câu chuyện nói về các anh thư Việt Nam. Hoặc
nói về Tây Thi 西施 gái nước
Việt, một người kiếm củi họ Thi, dệt
vải ở núi Trữ La, Gia Lãm, thuộc nước Việt
cổ - chúng ta lại gom vào mà nhận Tây Thi là gái Việt
Nam thì thật là ngu ngơ, đáng chê trách.”.
Bài 102, Ngũ Khoa Trưởng,
Hoàng Khoa Viên (Khoa trưởng họ
Ngũ, khoa viên họ Hoàng), đây là 2 viên chức Trung Hoa Quốc
Dân Đảng, bạn tác giả thực là người Hoa,
không thể là bạn Hồ Chí Minh được.
Bài 104, Dương Đào Bệnh
Trọng (Dương Đào ốm
nặng), một người Tàu bạn
tác giả bị bệnh, không liên hệ gì Hồ Chí Minh.
Bài 108, Độc Tướng
Công Huấn Từ (Đọc lời
giáo huấn của ông Tưởng), Hồ Chí Minh bị
quân Tưởng Giới Thạch bắt, lại là người
Cộng Sản, sao lại học lời và ca ngợi
Tưởng Giới Thạch?
Độc Tưởng Công Huấn
Từ
Bách chiết bất hồi,
hướng tiền tiến,
Cô thần nghiệt tử, nghĩa đương nhiên;
Quyết tâm, khổ cán dữ ngạnh cán,
Tự hữu thành công đích nhất thiên.
(Đỗ
Văn Hỷ dịch)
Đọc lời giáo huấn của
ông Tưởng
Gian khó không lùi, vẫn tiến
lên,
Thù nhà nợ nước, nghĩa đương nhiên;
Quyết tâm gắng gỏi và kiên nghị,
Nhất định thành công sẽ có phen.
Theo tác giả Tâm Việt: “Tác giả biết quá khứ thời niên thiếu của
lãnh tụ Tưởng Giới Thạch. Trong khi đó ông Hồ
và người dịch không biết nên dịch sai câu "Cô
thần nghiệt tử, nghĩa đương nhiên"
thành "Thù nhà nợ nước, nghĩa đương
nhiên". 辜臣孽子: Cô thần
nghiệt tử, nghĩa đương nhiên là đứa
bé tội nghiệp sinh ra không may mắn nên lẽ
đương nhiên phải cố gắng tự thân kiếm
sống mà thành công. Không có chữ gia, chữ quốc, chữ
thù, mà lại dịch là thù nhà nợ nước là thế
nào?”.
Bài 109, Lương
Hoa Thịnh Tướng Quân Thăng Nhậm Phó Tư Lệnh
(Tướng quân Lương Hoa Thịnh
thăng chức phó tư lệnh), làm gì mà khen cả Tướng
của Tưởng Giới Thạch?
Bài 110, Tặng Tiếu Hầu
(Hải) (Tặng chú hầu (Hải)), tác giả khuyên
ghi khắc lời dạy “cần kiệm liêm chính” của
Lương Khải Siêu, Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Một
đảng viên Quốc Tế Cộng Sản suốt đời
vì đảng mà sao không thấy chỗ nào nhắc gì tới
Mác-Lê hay Cộng Sản cả?.
Tặng Tiểu Hầu (Hải)
Ấu nhi học dã, tráng nhi hành,
Thượng trung đảng, quốc, hạ trung dân;
Kiệm cần, dũng cảm hòa liêm chính,
Vô phụ Lương công giáo dục tình.
(Đỗ Văn Hỷ dịch)
Tặng chú hầu (Hải)
Bé thì phải học, lớn
thì hành,
Với dân, đảng, nước, dạ trung thành;
Kiệm cần, dũng cảm và liêm chính,
Chớ phụ ông Lương dạy dỗ mình.
Những bài còn lại
hầu hết thuộc loại tả cảnh, tả tình…
Chẳng thấy
“bạo lực cách mạng”, “đâu tranh giai cấp” hay “vô sản
chuyên chính” đâu cả!?
- - - - -
Nhân vật
ông già tên “Lý” được nhắc tới trong cuốn “Những Mẩu Truyện Về Đời Hoạt
Động Của Hồ Chủ Tịch” phải chăng là tác giả?
Sao bây giờ lại đẻ thêm
ra bài thứ 135?
Đảng CSVN giữ tác
phẩm rồi úm ba la muốn bầy trò gì thì bầy???
- - - - -
Ý KIẾN CÁC
NHÀ NGHIÊN CỨU
Lời nói đầu của
bản in Nhật ký trong tù, NXB Văn hóa,
Hà Nội, 1960, cũng ghi đây là "Cuốn
sổ tay của Hồ Chủ Tịch,
gồm những bài thơ mà Người
đã viết trong cảnh lao tù từ mùa
thu 1942 đến mùa thu 1943.".
Trong tù thì Hồ Chí Minh lấy đâu ra giấy bút mà viết
ngày này tháng nọ, làm một hơi 133 bài thơ và ghí chú
chuyện thời sự...?
- - - - -
Về Niên Biểu
Bìa sách ghi ngày 29/8/1932-10/9/1933, lưng
sách lại
ghi thêm ngày 29/8/1942-10/9/1943. trên
chữ “Hoàn” (完, chấm hết)
có vẻ thêm vào cho phù hợp với năm tù của Hồ
Chí Minh? Còn ngày tháng tù thì chưa hẳn. Một bên
dùng chấm, 1 bên dùng gạch ngang.
Theo
ông Nguyễn
Đình Thi (1924-2003, thuộc thế hệ các nghệ sỹ
trưởng thành trong kháng chiến
chống Pháp. Từ năm 1995, ông là Chủ Tịch
Ủy Ban Toàn Quốc Liên Hiệp Các
Hội Văn Học Nghệ Thuật) viết
năm 1950 (tài liệu của Nha Thông Tin Việt
Bắc) rằng: “Rồi hoạt động ở
Tàu 1941-1942, Cụ bị bắt đi trong 62 ngày”…
Về Nét Bút
Từ trang đó (ghi chú từ trang
54) trở đi, nét chữ viết khá
khác phần thơ. Theo
những người biên soạn cuốn sách
thì phần sau là phần tác giả dùng
làm sổ tay, ghi chép các sự kiện
chính trị quốc tế, khu vực và
Việt Nam. Đặc biệt hơn là trong
phần sổ tay này có nhiều chữ tiếng Việt và tiếng Pháp
viết lẫn vào với chữ Hán.
Hai nét chữ khác nhau (phần
thơ và trong sổ tay ở phần
sau của
HCM), chứng tỏ phần
sau là phần viết thêm vào để tự nhận là của
mình, tức cướp “tác quyền”.
Về Số Lượng
Bài Thơ
Có nơi thì nói 115 (Harrison S.
Salisbury), 120, 133, 134, 150 (Nguyễn Đình Thi)…??? Điều này cho thấy sự bất nhất và
thiếu thành thật của nhóm chủ trương
đưa ra, cứ thập thò thêm bớt.
Theo Học Giả Lê
Hữu Mục
“Họ đánh lừa
độc giả trong nước là cuốn sách của tôi
(Hồ
Chí Minh Không Phái Là Tác Giả Nhật Trung Nhật Ký) ra sau tập sách của họ. Họ nói
sách tôi ra năm 1990, còn sách họ ra năm 1989. Sự thật
là các bài viết của tôi đã đăng từng kỳ
trên tạp chí “Làng Văn” từ năm 1989, đến
năm 1990 mới in thành sách. Còn sách của họ phát hành
năm 1990, nhưng đề lui năm lại là 1989!
“Lại nữa,
đề sách đã là lời thú nhận: “Suy nghĩ lại
về Ngục Trung Nhật Ký”. Tại sao lại phải
suy nghĩ lại, có vấn đề mới phải suy
nghĩ lại. Họ xác nhận là trong thời chiến họ phải
dùng những lời dao to búa lớn để tuyên truyền,
họ thú nhận là đã “cường điệu”, mà
cường điệu là “exagerate”, là lớn lối, bịa
đặt thêm. Họ bảo phải làm thế để
tạo một quan niệm sáng tác gương mẫu, là phải
theo hướng sáng tác như thơ của bác, bình dân và
trong thơ phải có thép (chiến đấu tính).
“Trước sau gì chỉ
là một vụ bịp, một tấn kịch đóng rất
vụng. Hồ Chí Minh úp mở nhận là thơ của
mình. Đám nô bộc văn nghệ cung đình dùng ống
đu đủ thổi phồng lên rất lố bịch.
Một chứng cớ không thể chối cãi là chữ ghi
ngoài bìa sách năm tác giả bị tù là 29 – 8 - 1932 đến
10 – 9 - 1933. Năm đó thì Hồ Chí Minh chỉ bị Quốc
Dân Đảng bắt và cầm tù ở bên Tầu vào
năm 1942 - 1943 thôi. Thời gian cách xa nhau 10 năm trời.
Trong
Tổng Tập Văn học của Hà Nội tại tập
38 trang 507 có in lại hình bìa, nhưng lại xóa bỏ ngày
tháng tù của nguyên bản. Rõ ràng có sự che giấu, khuất
tất.
....
Thân thế tác giả Ngục Trung Nhật Ký
Tâm Việt
Tác giả viết cho ai?
Chắc chắn là không viết cho dân tộc Việt Nam
đọc, mà viết cho dân Trung Hoa, chẳng hạn như
bài cổ động kháng chiến chống Nhật, ca ngợi
Thống Tướng Đảng Trưởng Tưởng
Giới Thạch hay bài khen con gà trống cạnh nhà tù bài 52
(Thính kê minh) nhờ tiếng gáy của nó đánh thức dân
Tàu dậy mà thực hiện lòng ái quốc.
Địa vị ông thế
nào?
Đã có danh vọng sợ mất tiếng tốt sẵn
có của mình. "Bả nhân
danh dự bạch hy sinh" nghĩa là “Cho người vô cớ mất thanh danh”. "Gián điệp hiềm nghi
không niết tạo" nghĩa là “Bịa chuyện tình nghi là gián điệp”.
Tuổi tác chừng bao nhiêu?
Đã lên tuổi lão phải chống gậy, răng rụng,
tóc bạc.
Tâm trạng ra thế nào?
Tức giận
vì bị hàm oan, kiêu hãnh vì sự hiểu biết và quá khứ
của mình. "Thí vấn dư sở phạm
hà tội ? Tội tại vị dân tộc
tận trung!" nghĩa là “Thử
hỏi chính ta phạm tội gì ? Có phải
tội vì tận trung với dân tộc Trung Hoa của mình
hay sao!”.
Bài "Thế nạn hữu mẫn
tả báo cáo", làm đơn kiện cho bạn tù.
Thân nhân bạn bè là ai?
Các tướng
lãnh trong quân đội Trung Hoa dân Quốc. Bài "Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên"
và bài "Hoàng khoa viên lai
thám", bạn bè viếng thăm.
Quan niệm chính trị thế nào?
Cần kiệm
liêm chính, trước trung với đảng, tổ quốc
rồi mới đến nhân dân.
Tác giả yêu nước nào? Trung Hoa Dân Quốc.
Quê hương ông ở đâu?
Túc Vinh, là
nơi bị bắt khi ra phố chơi; thuộc huyện
Thiên Bảo, Tỉnh Quảng Tây.
Niềm tin tôn giáo nào?
Thờ Quan Công. "Xích nhật trường minh Quan Vũ tâm"
nghĩa là “Mặt trời
đỏ sáng mãi như tâm của Quan Công”. Đa số người Quảng thờ Quan Công.
Biết ngoại ngữ nào? Tiếng Anh.
Sức chịu đựng khó nhọc?
Rất yếu vì tuổi cao, than
vẫn khi bị rụng răng, mất gậy. Vì bị
oan nên tinh thần buồn chán nhưng sau đó nhờ có vốn
học vấn nên giải khuây bằng việc ngâm thơ,
để sau đó gặp bạn hữu là tướng
Lương Hoa Thịnh và Tiểu Hầu thiếu tướng
giúp đỡ tiền bạc mua giấy mực bút lông mà viết,
kể cả làm đơn khiếu nại cho bạn tù.
- - - - -
Hiện giới thiệu trên mạng có 120 bài
- - - - - - - - - - -
- - -
Chủ nhiệm họ Hầu tặng một
bộ sách (Người dịch: Đỗ
Văn Hỷ)
Sách ngài Chủ nhiệm mới đưa sang,
Đọc đoạn, tinh thần chợt mở
mang;
Còn vẳng bên tai lời lãnh tụ,
Chân trời một tiếng sấm rền vang.
Hầu
Chủ Nhiệm là Hầu Chí Minh, chủ nhiệm chính trị
Chiến Khu 4, đã theo lệng Tưởng
Giới Thạch thả HCM ra.
Có người
nghi ngờ, có người tin, có người cho là HCM lấy
thơ người
khác và viết
thêm thơ mình vào, lập lờ đánh lận con đen...!?
Nhưng căn
cứ vào những chứng cứ hiển nhiên,
HCM
không thể là tác giả của Ngục Trung Nhật Ký gốc
được.
Huyền Thoại thân mời quý thính giả đón nghe các audio truyện lịch sử ...
30 April, 2009