foto

Đỗ Thông Minh

Tác giả NGỤC TRUNG NHẬT KÝ là ai?

NHẬT KÝ TRONG TÙ

獄中日記

Bìa Ngục Trung Nhật Ký - Có viết bài “Vô Đề”.

 

(無題)

精欲精身

神成神体

更大在在

要事獄獄

大業外中

 

(Vô đề)

Thân thể tại ngục trung
Tinh thần tại ngục ngoại
Dục thành đại sự nghiệp
Tinh thần cánh yếu đại.

 

(Người dịch không rõ)

 

(Không đề)

Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần phải càng cao.

- - -

Tham khảo các bài của BBC, Lê Hữu Mục (2003), Đỗ Nam Hải,

Tâm Việt (2007), trang nhà Thi Viên, VN Thư Quán, Internet…

 

Một trong số 60 bài về “Nhật Ký Trong Tù” đăng trong một cuốn sách là của tác giả Trần Dân Tiên (chính là Hồ Chí Minh), giới thiệu về “Cụ Hồ thời gian ở tù bên Trung Quốc”.

Mặc dù người viết bài này cũng như không mấy ai được xem trọn vẹn bản gốc vì bản gốc cũng giống như “Di Chúc Hồ Chí Minh” hầu như không được phổ biến đầy đủ để tha hồ tuyên truyền tùy theo tình hình. Nhưng qua những gì chúng ta biết được, cũng có thể thấy hàng chục điều chứng tỏ Hồ Chí Minh không phải là tác giả của tập thơ. Cuốn sổ tay được nói là gồm phần đầu là thơ với 53 trang và phần sau ghi chép cũng bằng chữ Hán, nhưng nét bút khác hẳn và có thêm chú thích tiếng Việt và Pháp.

Cuốn này nguyên từ Tung Quốc lưu lạc qua Việt Nam, hay HCM mang về, bị bỏ quên ở chỗ nào đó, sau mới được lôi ra và trao cho trách nhiệm đánh bóng HCM… theo đúng tinh thần cực kỳ tự ái, luôn muốn tự đề cao và muốn người khác lầm tưởng mà đề cao mình của HCM.

 

Xem 120/133 bài thơ Đường… ngũ ngôn tứ tuyệt,

thất ngôn tứ tuyệt hay bát cú… bằng chữ Hán, Hán-Việt và dịch:

http://www.thivien.net/viewpoemgroup.php?ID=6

http://vnthuquan.net/TRUYEN/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n1nnn1ntn31n343tq83a3q3m3237ntn

Ngục Trung Nhật Ký trên Wikipedia

http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADt_k%C3%BD_trong_t%C3%B9

BBC

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2005/05/050520_nhatkytrongtu.shtml

- - - - -

Ngục Trung Nhật Ký - 獄中日記

http://www.bbc.co.uk/worldservice/images/2005/05/20050520120604ban19321933203.jpg  http://www.bbc.co.uk/worldservice/images/2005/05/20050520120642trang53203.jpg

Nét bút của người Hoa, nhưng còn non, chưa cứng lắm.

 “Ngục Trung Nhật Ký” được nói là của Hồ Chí Minh viết lúc bị tù lần thứ 2 ở Quảng Tây. Nhưng ít nhất hàng chục dữ kiện về nét bút và nội dung cho thấy cuốn sách này của một người Hoa, bìa sách ghi thời gian ở tù và sáng tác là:

29.8.1932

10.9.1933

(hơi nghiêng trái, dùng chấm “.” và không có gạch nối “-” giữa 2 ngày), được thêm ngày bị giam “theo Hồ Chí Minh nói hay viết” ở bìa sau:

29-8-1942

-

10-9-1943

(nghiêng phải , dùng gạch nối “-” và có gạch nối “-” giữa 2 ngày) với nét bút khác.

Do đó, thời gian bị giam cũng có thể đã được chế ra, ghi cho hợp với bìa trước cuốn sách chứ không thật, chỉ sai biệt đúng 10 năm cho tạm hợp với năm tù thật?

2 nét bút rõ ràng khác nhau 1 bên nghiêng từ trái qua phải,

1 bên nghiêng từ phải qua trái, một bên dùng chấm, 1 bên dùng gạch ngang.

Xem trang nhà:

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/08/080820_hoangtranh.shtml

 

"Mối tình hữu nghị Việt – Trung mãi mãi xanh tươi”So với nét bút khi Hồ Chí Minh viết thư cho vợ người Hoa là Tăng Tuyết Minh năm 1928 (bên phải) thì nét bút đã rất cứng, rất tới, chứng tỏ cũng rành chữ Hán (như vậy là văn hóa giật lùi!?).

Để dễ nhận biết, so với chữ “trung” () nét vuông và ngang trên thì trong lưu bút tại Bắc Kinh năm 1968 (Việt-Trung hữu nghị, Vạn cổ trường thanh.) (bên trái) và các nơi khác đều với chữ nét tròn và nghiêng… thì khác hẳn. 

Có thể xem thêm về chữ Hán cuốn “Chủ Tịch Hồ Chí Minh Bút Danh & Bút Tích”, nhà xuất bản Văn Hóa - Thông Tin, ngày 10/1/2007.

           - Trích bìa “Bản Án Chế Độ” viết năm 1921, xuất bản năm 1925.

- Trích thư báo cáo về việc lập Chính Phủ Lâm Thời gửi Trần Tướng Quân (Trung Quốc) ngày 19/12/1945.

Hồ Chí Minh lấy sách của người ta đưa cho đàn em in, nhưng khi được hỏi không dám khẳng định là của mình. Trong khi đàn em và đám bồi bút cứ thế nhắm mắt ca tụng. Những dữ kiện cho thấy của người khác qua việc Hồ Chí Minh với bút danh Trần Dân Tiên viết về chuyện bị bắt giam.

- - - - -

Là người Việt Nam, một đảng viên CS quốc tế, thế mà không thấy trong tập thơ nói gì tới đất nước và chủ nghĩa CS cả, mà lại nói về Trung Hoa Quốc Dân Đảng!? Tập thơ phải là một người Hoa theo Quốc Dân Đảng nhưng vì lý do nào đó bị bắt.

 

Ba bài đầu trong Nhật Trung Nhật Ký

 

Khai quyển

Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu

Nhập Tĩnh Tây huyện ngục

 

 

Về Một Số Bài Thơ

 

Bài 2, Khai Quyển (Mở đầu tập nhật ký), tác giả tự xưng là Lão Phu, chỉ người già, khi đó Hồ Chí Minh khoảng 51-52 tuổi, chưa thể tự coi mình là “lão phu”. Dịch giả chỉ dám dịch là “ta” trống không.

 

Bài 5, Thế Lộ Nan (Đường đời hiểm trở), có thật bài này hay 4 câu giữa nằm trong Ngục Trung Nhật Ký không, hay được thêm vào vì cả 133+1 bài mà không bài nào nói tới Việt Nam thì kỳ?

 

Thế Lộ Nan

Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham
Na tri bình lộ cánh nan kham
Cao sơn lộ hổ chung vô dạng
Bình lộ phùng nhân khước bị giam.
 
nguyên đại biểu Việt Nam dân
Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân
Vô nại phong ba bình địa khởi
Tống dư nhập ngụ tác gia tân
 
Trung thành ngã bản vô tâm cứu
Khước bị hiềm nghi tố Hán gian
Xử thế nguyên lai phi dị dị
Nhi kim xử thế cánh nan nan.

(Nam Trân dịch)


Đường đời hiểm trở

Đi khắp đèo cao, khắp núi cao,
Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao!
Núi cao gặp hổ mà vô sự,
Đường phẳng gặp người bị tống lao?!
 
Ta là đại biểu dân Việt Nam,
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm;
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió,
Phải làm “khách quý” ở nhà giam!
 
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng,
Lại bị tình nghi là Hán gian;
Xử thế từ xưa không phải dễ,
Mà nay, xử thế khó khăn hơn.

 

Có nhiều thể thơ, hầu hết các bài trong tập này thuộc thể “Ngũ ngôn”, “Tứ tuyệt”, “Thất ngôn bát cú”… nhưng đây là bài duy nhất thuộc thể “Thất ngôn thập nhị cú” tác giả viết? Tác giả nếu là người Việt sao lại bị coi là “Hán gian”, tại sao bài 42 Nhai Thượng cũng lập lại chuyện “Hán gian” này!?

Theo tác giả Tâm Việt: “Trong bài “Thế lộ nan”, tác giả có đề cập đến từ Việt. Đối với người Quảng: Quảng Đông, Quảng Tây... Tiếng của họ được gọi là “Việt ngữ” () và đất của họ được gọi là Việt địa, Yue. Việt cũng là đất của Việt Vương Câu Tiễn, Việt địa cựu sơn hà. Tại Trung Quốc, tiếng Quảng Đông còn được gọi là "Việt ngữ" vì hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, nguyên trước là đất của dân tộc Bách Việt (), nên họ gọi hai tỉnh ấy là tỉnh Việt.”.

Nhất là Quảng Đông, bảng số xe tỉnh này đều bắt đầu bằng “. Cũng có khi họ dùng. Họ gọi chung người Việt Nam là người Kinh (). Bản gốc dùng chữ “Việt” nào, hay ?

- - - - -

Tiến Sĩ Đinh Thế Dũng ở Melbourne, Úc, biết tiếng Nhật (trong có chữ Hán), tiếng Anh, tiếng Pháp, lại là một nhà thơ, đã góp ý khi đọc bản thảo bài viết này của chúng tôi.

Theo thiển ý, anh đưa 3 nhận xét mới cần lưu ý:

1- Cần có bản chính gồm đủ mọi bài và bút tự để kiểm chứng.

2- Nhận xét về bút tự từng trang, so sánh với bút tự mà Hồ Chí Minh đã viết (chữ Hán, và số) ở những nơi khác.

3- Bài Thế Lộ Nan rất đặc biệt: Bài này là bài duy nhất nói rõ tư cách đại biểu Việt Nam, thế nhưng rất lạ vì thể thơ toàn cuốn hình như là thể thơ Trung Hoa (tứ tuyệt là nhiều nhất), và bài này mà ở thất ngôn bát cú thì đúng là thể thơ người Trung Hoa miền Nam (những vùng Quảng Đông & Quảng Tây... rất thích). Thử bỏ đi 4 câu giữa, ý thơ đi xuyên suốt và 1 vần, câu 3 đối câu 4, câu 5 đối câu 6.

Kết luận: Nếu đây là bài thơ 8 câu 7 chữ thì chỉnh lắm. Cần phải có bản chính để đối khảo nét chữ.

Bài thơ 3 đoạn 4 câu 7 chữ, không chung vần từ đoạn này qua đoạn khác (kiểu Nam Trân dịch) có vẻ lạc lõng vì nó mang tích thơ mới, trong khi gần như toàn bài được chọn đăng lại là thờ Trung Hoa cổ điển.

Trong bài Thế Lộ Nan, đoạn mà tỏ rõ "danh nghĩa" Việt Nam nhất cần phải suy xét thật kỹ, không biết có thêm vào không. Đọc kỹ 4 câu chót, đây là khẩu khí của một người than thở về cách đối xử với đồng bào, hàng xóm, chỗ thân quen (vì vậy mới đem chuyện xử thế, nôm na là ăn ở ngày xưa và ngày nay). Nếu là một ông đại biểu VN thì lại "lãng xẹt" về cả nội dung đến hình thức!

Khi Nam Trân dịch thì mất hẳn tính thơ Đường, và tìm cách đưa bài Thế Lộ Nam một hình ảnh khác với hình ảnh của một ngưi than thở là đường đời khó khăn. Hồ Chí Minh không có giọng điệu than thở như vậy, vì trong thơ phải có "thép" mà. Do đó, tôi đồng ý với anh là bài "Thế Lộ Nan" cần phải được đặt lại vấn đề.

- - - - -

Bài 40, Lạc Liễu Nhất Chích Nha (Rụng mất một chiếc răng), Hồ Chí Minh chưa già làm gì mà rụng răng, hình ảnh nào Hồ Chí Minh sún răng không?

 

Bài 42, Nhai Thượng (Trên đường phố), Hồ Chí Minh là người Việt thì sao bị coi là “Hán Gian”?

 

Nhai Thượng

Nhai thượng nhân tranh khán Hán gian
Hán gian dữ ngã bản vô can
Vô can nhưng thị hiềm nghi phạm
Sử ngã tâm trung giác điểm hàn.

 

 (Nam Trân dịch)

 

Trên đường phố

Ngoài phố tranh nhau xem Hán gian,
Hán gian, ta vốn thực vô can;
Vô can vẫn bị nghi là có,
Thực khiến lòng ta lạnh tới gan.

 

              Bài 5 Thế Lộ Nam cũng đã đề cập tới chuyện “Hán gian” này.

 

Bài 44, Trưng Binh Gia Quyến (Gia quyến bị bắt lính), nhà Hồ Chí Minh đâu có ai bị trưng binh đâu mà đem tâm tình ấy ra than thở?

 

Trưng Binh Gia Quyến

Lang quân nhất khứ bất hồi đầu
Sử thiếp khuê trung độc bão sầu
Đương cục khả liên dư tịch mịch
Thỉnh dư lai tạm trú lao tù.

 

 (Nam Trân dịch)

 

Gia quyến người bị bắt lính

Biền biệt anh đi không trở lại,
Buồng the trơ trọi, thiếp ôm sầu;
Quan trên xót nỗi em cô quạnh,
Nên lại mời em tạm ở tù.

 

Bài 59, Thụy Bất Trước (Không ngủ được) có câu: “Mộng hồn hoàn nhiễm ngũ tiêm tinh”, nên dịch là “Sao năm cánh nhọn mộng hồn quanh”, tại sao Nam Trân lại dịch là: “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh?. Đâu có chữ nào nói tới màu vàng, đây là lối dịch của văn nô, gượng ép kéo bài thơ vào chuyện Việt Nam vì hầu như cả tập thơ quên không nói tới quê hương, dân tộc.

 

Thụy Bất Trước

Nhất canh... nhị canh... hựu tam canh,
Triển chuyển, bồi hồi, thụy bất thành;
Tứ, ngũ canh thì tài hợp nhãn,
Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh.

 

 (Nam Trân dịch)

 

Không ngủ được

Một canh... hai canh... lại ba canh,
Trằn trọc băn khoăn, giấc chẳng thành;
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt,
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.

Theo tác giả Tâm Việt: “Trong bài Thụy Bất Trước, câu "Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh" 夢魂環繞五尖星 (The dream-soul surrounds with five sharp stars), ý của tác giả là bày tỏ giấc mơ may mắn cho mình và thịnh vượng cho tổ quốc mình.

Thật vậy, trong Sấm Trạng Trình, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có câu: “Năm Giáp Tý vẻ khuê đã rạng - Lộ ngũ tinh trinh tượng thái hanh.. Biểu tượng ngũ tinh là điềm may mắn mưa thuận gió hòa, nhân tình yên ổn..

           Như trong cuốn “Kỷ Niệm 100 Năm Phong Trào Đông Du” của chúng tôi đã trình bày, cờ của Việt Nam Quang Phục Hội do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo đã dùng hình ảnh “Ngũ Tinh Liên Châu” (4 chấm tròn trắng tại 4 góc hình chữ nhật và 1 chấm tròn ở giữa lien kết với nhau bằng 2 đường chéo), đó là hiện tượng đặc biệt cứ một chu kỳ 60 năm (một hội) thì cả 5 ngôi sao nổi tiếng Kim, Mộc, Thủy, Hỏa Thổ tuy quay theo qũy đạo khác nhau, tốc độ khác nhau, nhưng cùng đứng về một phía. Theo quan niệm Đông Phương, đó là biểu tượng kỳ diệu và may mắn. Vậy ngũ tiêm tinh” không phải là “sao 5 cánh” mà là “5 ngôi sao nhọn“.

 

Bài 61, Thế Nan Hữu Mẫn Tả Báo Cáo (Viết hộ báo cáo cho các bạn tù), Hồ Chí Minh là người Việt đi viết đơn tiếng Hoa cho người Hoa sao lạ vậy?

Thân thế của tác giả cũng được biểu lộ, là người có đủ kiến thức về luật pháp để viết các đơn kiện cho các bạn tù, với sách luật có sẵn để tra cứu... "Phụng Thử", "Đẳng Nhân" (là đồng đẳng) trong tư pháp, hành chính vừa mới học, chứ không có nghĩa "thừa lệnh" như dịch giả viết.

 

Thế Nan Hữu Mẫn Tả Báo Cáo

Đồng chu cộng tế nghĩa nan từ,
Thế hữu biên tu báo cáo thư;
"Phụng thử", "đẳng nhân" kim thủy học,
Đa đa bác đắc cảm ân từ.

 

(Nam Trân dịch)

 

Viết hộ báo cáo cho các bạn tù

Cùng hội cùng thuyền nên phải giúp,
Viết thay báo cáo dám từ nan;
"Chiểu theo",
"thừa lệnh" (?)nay vừa học,
Đã được bao lời bạn cảm ơn.

 

Bài 64, Song Thập Nhất (11-11), Hồ Chí Minh bị quân Tưởng Giới Thạch bắt thì mắc mớ gì nhớ ngày chấm dứt Thế Chiến Thứ 1 (1914-1918), cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật xâm lược của nhân dân Trung Quốc, tính từ ngày 7-7-1937 đến cuối năm 1942 là gần 6 năm và hô hào quân Trung Hoa phản công quân Nhật này…

 

Bài 74, Ngục Đinh Thiết Ngã Chi Sĩ Đích (Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy của ta), Hồ Chí Minh khoảng 51-52 tuổi thì làm gì đã chống gậy sớm vậy? Ai lại cho phép đem gậy vào trong tù trừ khi người đó quá già yếu, không thể tự đi lại được?

 

Ngục Đinh Thiết Ngã Chi Sĩ Đích

Nhất sinh chính trực hựu kiên cương,
Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương;
Hận bỉ gian nhân ly ngã lưỡng,
Trường giao ngã nhĩ các thê lương.

 

(Nam Trân dịch)

 

Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy của ta

Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường,
Dìu dắt nhau đi mấy tuyết sương;
Giận kẻ gian kia
gây cách biệt,
Hai ta dằng dặc nỗi buồn thương.

 

Theo tác giả Tâm Việt: “Chiếc gậy đã là bạn đồng hành của tác giả qua bao nhiêu năm dài. (Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương), chứng tỏ tác giả già yếu từ lâu, mà chiếc gậy này chắc chắn không phải là chiếc gậy thường vì giá trị của nó đi với uy thế của tác giả - đó là sự chính trực và kiên cường của vị quan thanh liêm. (Nhất sinh chính trực hựu kiên cương)..

 

Đọc lại bài “Thất Cửu” trong cuốn Giáo Trình Chữ Hán của Lê Văn Quán, trang 22, do nhà xuất bản Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp Hà Nội năm 1978 để thấy có chỗ HCM khoe mình khỏe như thế nào.

(63 tuổi, nếu tính HCM sinh năm 1890 thì bài này làm năm 1953?)

 

Thất Cửu

Nhân vi ngũ tuần thường thán lao?,

Ngã kim thất cửu chinh khang cường,

Tụ cung thanh đạm tinh thần sảng,

Tố sự thung dung nhật nguyệt trường.

 

(Xuân Thủy dịch)

 

Sáu mươi ba tuổi

Chưa năm mươi tuổi đã than già,

Sáu ba, mình vẫn nghĩ là đương trai,

Sống quen thanh đạm nhẹ người,

Việc làm tháng rộng ngày dài ung dung.

 

Bài 90, Tứ Cá Nguyệt Liễu (Bốn tháng rồi), Hồ Chí Minh đã già đâu mà nói răng rụng mất một chiếc, nhất là tóc bạc thêm mấy phần, tức đã bạc và nay bạc thêm nhiều?

 

Tứ cá nguyệt liễu

Lạc liễu nhất chích nha,
Phát bạch liễu hứa đa,
Hắc sấu tượng ngã quỷ,
Toàn thân thị lại sa.

(Nam Trân dịch)

 

Bốn tháng rồi

Răng rụng mất một chiếc,
Tóc bạc thêm mấy phần,
Gầy đen như quỷ đói,
Ghẻ lở mọc đầy thân.

 

Bài 98, Mộng Ưu Đãi (Được ưu đãi), qua bạn bè và liên hệ quyền thế, chúng ta có thể biết địa vị chức vụ của tác giả. Trong khi HCM viết thời kỳ này là bị cùm gông, lê lết…

Mộng Ưu Đãi

Ngật câu phạn thái, thụy câu chiên
Hựu cấp linh tiền mãi báo, yên
Chủ nhiệm Lương công ưu đãi ngã
Ngã tâm cảm khích bất thăng ngôn

 

 (Huệ Chi dịch)

 

Được ưu đãi

Ăn có cơm rau, ngủ có mền
Báo xem, thuốc hút: cấp cho tiền
Ông Lương chủ nhiệm đãi ta hậu
Cảm kích lòng ta, chẳng nói nên.

 

HCM từng kể trong cuốn “Những Mẩu Truyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” là lần ở tù này bị cùm gông, lê lết cơ mà!? Và không hề có chỗ nào viết là đã từng làm cả tập thơ trong tù Quảng Tây cả.

Theo tác giả Tâm Việt: “Tác giả là một viên chức của TH Quốc Dân Đảng nên trong thời gian bị nghi ngờ vẫn được quyền lợi hơn hẳn những người tù bình thường. Ông cũng ca ngợi đưa chi tiết tài đánh giặc từ Hồ Nam, Chiết Giang, Miến Điện đến Vân Nam của tướng bạn và vui mừng khi bạn được thăng chức tướng, bài 109 (Lương Hoa Thịnh Tướng Quân Thăng Nhậm Phó Tư Lệnh). Khi ở tù, ông cũng được các viên chức đến thăm viếng, bài 102 (Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên).

Với sự quen biết thân thiết với tướng Lương Hoa Thịnh, ông đã có giọng văn kẻ cả với đàn em đệ tử của vị tướng này, bài 110 (Tặng Tiểu Hầu (Hải)) trong câu "Vô phụ Lương công giáo dục tình". Thêm nữa qua câu "Thượng trung đảng, quốc, hạ trung dân", chúng ta biết tác giả đảng viên đã sống theo câu nói này mà truyền lại cho người nghe là Tiểu Hầu.

Vì là bạn thân lâu đời của tướng Lương Hoa Thịnh nên tác giả được cung cấp mọi nhu cầu từ kinh tế đến tư tưởng. Vì biết nhau đã lâu nên các chiến công đánh Nam dẹp Bắc của tướng Lương Hoa Thịnh đều được tác giả ghi nhận và ca ngợi.”.

 

Bài 91, "Bệnh Trọng" (Ốm nặng). Theo tác giả Tâm Việt: Tác giả đã ví thân thể mình như là nơi của cuộc chiến như tại đất Việt xưa, nơi Ngô-Việt giao tranh. Thường thường, bị bệnh vì khi bên trong tâm sinh lý không vững chãi thì một cơn gió lạnh hoặc một trận nóng ngắn cũng làm dao động cơ thể thành bệnh nặng. Nột thương ngoại cảm là danh t thường được dùng để chỉ bệnh chứng như thế nào. Nội thương có thể là nhớ nhà, uất hận, buồn chán, tâm bệnh như tương tư hoặc ăn uống thiếu thốn nên cơ thể suy nhược - còn ngoại cảm là bị thời tiết, nơi ở, môi trường chung quanh ảnh hưởng. Người dịch Nam Trân đã cố ý dịch sai là "Nội thương" đất Việt cảnh lầm than" để đem Việt Nam, vùng Đông Dương ra khích động cảm xúc thù hận chiến đấu.

“Nội thương Việt địa cựu sơn hà”, theo nghĩa đen là trong lòng nhớ thương đất Việt (chỉ Quảng Đông - Quảng Tây) núi sông xưa.

“Ngoại cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt”, nghĩa là còn bây giờ là Trung Hoa với cái cảm lạnh của khí trời mà thành bệnh. Ông so sánh quá khứ đất cũ là Việt địa và bây giờ là đất Trung Hoa.”.

Bệnh Trọng

Ngoại cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt,
Nội thương Việt địa cựu sơn hà;
Ngục trung hại bệnh chân tân khổ,
Bản ưng thống khốc khước cuồng ca.

 

 (Nam Trân dịch)

 

Ốm nặng

"Ngoại cảm" trời Hoa cơn nóng lạnh,
"Nội thương" đất Việt cảnh lầm than;
Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn!

 

Cũng theo tác giả Tâm Việt: “Việt Nữ Kiếm 越女劍 (Sword of the Yue Maiden) là một câu chuyện của Kim Dung do một người Trung Hoa viết, nếu không hiểu đầu đuôi, mọi người Việt Nam cũng tưởng là câu chuyện nói về các anh thư Việt Nam. Hoặc nói về Tây Thi 西施 gái nước Việt, một người kiếm củi họ Thi, dệt vải ở núi Trữ La, Gia Lãm, thuộc nước Việt cổ - chúng ta lại gom vào mà nhận Tây Thi là gái Việt Nam thì thật là ngu ngơ, đáng chê trách.”.

 

Bài 102, Ngũ Khoa Trưởng, Hoàng Khoa Viên (Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng), đây là 2 viên chức Trung Hoa Quốc Dân Đảng, bạn tác giả thực là người Hoa, không thể là bạn Hồ Chí Minh được.

 

Bài 104, Dương Đào Bệnh Trọng (Dương Đào ốm nặng), một người Tàu bạn tác giả bị bệnh, không liên hệ gì Hồ Chí Minh.

 

Bài 108, Độc Tướng Công Huấn Từ (Đọc lời giáo huấn của ông Tưởng), Hồ Chí Minh bị quân Tưởng Giới Thạch bắt, lại là người Cộng Sản, sao lại học lời và ca ngợi Tưởng Giới Thạch?

Độc Tưởng Công Huấn Từ

Bách chiết bất hồi, hướng tiền tiến,
Cô thần nghiệt tử, nghĩa đương nhiên;
Quyết tâm, khổ cán dữ ngạnh cán,
Tự hữu thành công đích nhất thiên.

 

 (Đỗ Văn Hỷ dịch)

 

Đọc lời giáo huấn của ông Tưởng

Gian khó không lùi, vẫn tiến lên,
Thù nhà nợ nước, nghĩa đương nhiên;
Quyết tâm gắng gỏi và kiên nghị,
Nhất định thành công sẽ có phen.

 

Theo tác giả Tâm Việt: “Tác giả biết quá khứ thời niên thiếu của lãnh tụ Tưởng Giới Thạch. Trong khi đó ông Hồ và người dịch không biết nên dịch sai câu "Cô thần nghiệt tử, nghĩa đương nhiên" thành "Thù nhà nợ nước, nghĩa đương nhiên". 辜臣孽子: Cô thần nghiệt tử, nghĩa đương nhiên là đứa bé tội nghiệp sinh ra không may mắn nên lẽ đương nhiên phải cố gắng tự thân kiếm sống mà thành công. Không có chữ gia, chữ quốc, chữ thù, mà lại dịch là thù nhà nợ nước là thế nào?”.

 

Bài 109, Lương Hoa Thịnh Tướng Quân Thăng Nhậm Phó Tư Lệnh (Tướng quân Lương Hoa Thịnh thăng chức phó tư lệnh), làm gì mà khen cả Tướng của Tưởng Giới Thạch?

 

Bài 110, Tặng Tiếu Hầu (Hải) (Tặng chú hầu (Hải)), tác giả khuyên ghi khắc lời dạy “cần kiệm liêm chính” của Lương Khải Siêu, Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Một đảng viên Quốc Tế Cộng Sản suốt đời vì đảng mà sao không thấy chỗ nào nhắc gì tới Mác-Lê hay Cộng Sản cả?.

 

Tặng Tiểu Hầu (Hải)

Ấu nhi học dã, tráng nhi hành,
Thượng trung đảng, quốc, hạ trung dân;
Kiệm cần, dũng cảm hòa liêm chính,
Vô phụ Lương công giáo dục tình.

 

(Đỗ Văn Hỷ dịch)

 

Tặng chú hầu (Hải)

Bé thì phải học, lớn thì hành,
Với dân, đảng, nước, dạ trung thành;
Kiệm cần, dũng cảm và liêm chính,
Chớ phụ ông Lương dạy dỗ mình.

 

Những bài còn lại hầu hết thuộc loại tả cảnh, tả tình…

Chẳng thấy “bạo lực cách mạng”, “đâu tranh giai cấp” hay “vô sản chuyên chính” đâu cả!?

- - - - -

Nhân vật ông già tên “Lý” được nhắc tới trong cuốn “Những Mẩu Truyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” phải chăng là tác giả?

- - - - -

Các ấn bản Nhật Ký Trong Tù

1-     1950, nxb Viện Văn Học, 114 bài.

2-     1985, nxb Văn Nghệ, 85 bài và dịch ra tiếng Pháp.

3- 1994, nxb Thế Giới, 73 bài và dịch ra tiếng Anh.

4- 2003, nxb Văn Học, 135 bài.

Bài 135 “Tân Xuất Ngục Học Đăng Sơn

(Kể chuyện HCM vừa ra khỏi ngục và học leo núi,

nếu đúng là tác giả tập thơ thì thân đi phải chống gậy còn học leo núi làm gì!?)

Sao bây giờ lại đẻ thêm ra bài thứ 135?

Đảng CSVN giữ tác phẩm rồi úm ba la muốn bầy trò gì thì bầy???

- - - - -

Ý KIẾN CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU

 

Lời nói đầu của bản in Nhật ký trong tù, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1960, cũng ghi đây là "Cuốn sổ tay của Hồ Chủ Tịch, gồm những bài thơ mà Người đã viết trong cảnh lao tù từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943.".

Trong tù thì Hồ Chí Minh lấy đâu ra giấy bút mà viết ngày này tháng nọ, làm một hơi 133 bài thơ và ghí chú chuyện thời sự...?

- - - - -

Về Niên Biểu

           Bìa sách ghi ngày 29/8/1932-10/9/1933, lưng sách lại ghi thêm ngày 29/8/1942-10/9/1943. trên chữ “Hoàn” (, chấm hết) có vẻ thêm vào cho phù hợp với năm tù của Hồ Chí Minh? Còn ngày tháng tù thì chưa hẳn. Một bên dùng chấm, 1 bên dùng gạch ngang.

Theo ông Nguyễn Đình Thi (1924-2003, thuộc thế hệ các nghệ sỹ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Từ năm 1995, ông là Chủ Tịch Ủy Ban Toàn Quốc Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ Thuật) viết năm 1950 (tài liệu của Nha Thông Tin Việt Bắc) rằng: “Rồi hoạt động ở Tàu 1941-1942, Cụ bị bắt đi trong 62 ngày”

 

Về Nét Bút

Từ trang đó (ghi chú từ trang 54) trở đi, nét chữ viết khá khác phần thơ. Theo những người biên soạn cuốn sách thì phần sau là phần tác giả dùng làm sổ tay, ghi chép các sự kiện chính trị quốc tế, khu vực và Việt Nam. Đặc biệt hơn là trong phần sổ tay này có nhiều chữ tiếng Việt và tiếng Pháp viết lẫn vào với chữ Hán.

Hai nét chữ khác nhau (phần thơ và trong sổ tay ở phần sau của HCM), chứng tỏ phần sau là phần viết thêm vào để tự nhận là của mình, tức cướp “tác quyền”.

 

Về Số Lượng Bài Thơ

Có nơi thì nói 115 (Harrison S. Salisbury), 120, 133, 134, 150 (Nguyễn Đình Thi)…??? Điều này cho thấy sự bất nhất và thiếu thành thật của nhóm chủ trương đưa ra, cứ thập thò thêm bớt.

 

Theo Học Giả Lê Hữu Mục

“Họ đánh lừa độc giả trong nước là cuốn sách của tôi (Hồ Chí Minh Không Phái Là Tác Giả Nhật Trung Nhật Ký) ra sau tập sách của họ. Họ nói sách tôi ra năm 1990, còn sách họ ra năm 1989. Sự thật là các bài viết của tôi đã đăng từng kỳ trên tạp chí “Làng Văn” từ năm 1989, đến năm 1990 mới in thành sách. Còn sách của họ phát hành năm 1990, nhưng đề lui năm lại là 1989! 

“Lại nữa, đề sách đã là lời thú nhận: “Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật Ký”. Tại sao lại phải suy nghĩ lại, có vấn đề mới phải suy nghĩ lại. Họ xác nhận là trong thời chiến họ phải dùng những lời dao to búa lớn để tuyên truyền, họ thú nhận là đã “cường điệu”, mà cường điệu là “exagerate”, là lớn lối, bịa đặt thêm. Họ bảo phải làm thế để tạo một quan niệm sáng tác gương mẫu, là phải theo hướng sáng tác như thơ của bác, bình dân và trong thơ phải có thép (chiến đấu tính). 

“Trước sau gì chỉ là một vụ bịp, một tấn kịch đóng rất vụng. Hồ Chí Minh úp mở nhận là thơ của mình. Đám nô bộc văn nghệ cung đình dùng ống đu đủ thổi phồng lên rất lố bịch. Một chứng cớ không thể chối cãi là chữ ghi ngoài bìa sách năm tác giả bị tù là 29 – 8 - 1932 đến 10 – 9 - 1933. Năm đó thì Hồ Chí Minh chỉ bị Quốc Dân Đảng bắt và cầm tù ở bên Tầu vào năm 1942 - 1943 thôi. Thời gian cách xa nhau 10 năm trời.

Trong Tổng Tập Văn học của Hà Nội tại tập 38 trang 507 có in lại hình bìa, nhưng lại xóa bỏ ngày tháng tù của nguyên bản. Rõ ràng có sự che giấu, khuất tất. 
....

Thân thế tác giả Ngục Trung Nhật Ký

                                     Tâm Việt

Tác giả viết cho ai?
Chắc chắn là không viết cho dân tộc Việt Nam đọc, mà viết cho dân Trung Hoa, chẳng hạn như bài cổ động kháng chiến chống Nhật, ca ngợi Thống Tướng Đảng Trưởng Tưởng Giới Thạch hay bài khen con gà trống cạnh nhà tù bài 52 (Thính kê minh) nhờ tiếng gáy của nó đánh thức dân Tàu dậy mà thực hiện lòng ái quốc.

Địa vị ông thế nào?
Đã có danh vọng sợ mất tiếng tốt sẵn có của mình. "Bả nhân danh dự bạch hy sinh" nghĩa là “Cho người vô cớ mất thanh danh”. "Gián điệp hiềm nghi không niết tạo" nghĩa là “Bịa chuyện tình nghi là gián điệp”.

Tuổi tác chừng bao nhiêu?
Đã lên tuổi lão phải chống gậy, răng rụng, tóc bạc.

Tâm trạng ra thế nào?
Tức giận vì bị hàm oan, kiêu hãnh vì sự hiểu biết và quá khứ của mình. "Thí vấn dư sở phạm hà tội ? Tội tại vị dân tộc tận trung!" nghĩa là “Thử hỏi chính ta phạm tội gì ? Có phải tội vì tận trung với dân tộc Trung Hoa của mình hay sao!. Bài "Thế nạn hữu mẫn tả báo cáo", làm đơn kiện cho bạn tù.

Thân nhân bạn bè là ai?
Các tướng lãnh trong quân đội Trung Hoa dân Quốc. Bài "Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên" và bài "Hoàng khoa viên lai thám", bạn bè viếng thăm.

Quan niệm chính trị thế nào?
Cần kiệm liêm chính, trước trung với đảng, tổ quốc rồi mới đến nhân dân.

Tác giả yêu nước nào? Trung Hoa Dân Quốc.

Quê hương ông ở đâu?
Túc Vinh, là nơi bị bắt khi ra phố chơi; thuộc huyện Thiên Bảo, Tỉnh Quảng Tây.

Niềm tin tôn giáo nào?
Thờ Quan Công. "Xích nhật trường minh Quan Vũ tâm" nghĩa là “Mặt trời đỏ sáng mãi như tâm của Quan Công”. Đa số người Quảng thờ Quan Công.

Biết ngoại ngữ nào? Tiếng Anh.

Sức chịu đựng khó nhọc?
Rất yếu vì tuổi cao, than vẫn khi bị rụng răng, mất gậy. Vì bị oan nên tinh thần buồn chán nhưng sau đó nhờ có vốn học vấn nên giải khuây bằng việc ngâm thơ, để sau đó gặp bạn hữu là tướng Lương Hoa Thịnh và Tiểu Hầu thiếu tướng giúp đỡ tiền bạc mua giấy mực bút lông mà viết, kể cả làm đơn khiếu nại cho bạn tù.

- - - - -

Hiện giới thiệu trên mạng có 120 bài


Cảm ơn bạn thainhi_vn (thành viên tại
www.ttvnol.com) đã bỏ công gõ cuốn Nhật ký. Cuốn nhật ký tại đây lấy nguồn từ (với một số lỗi được sửa lại):

http://www.ttvnol.com/tacphamvanhoc/336140.ttvn

1. Vô đề

41. Long An – Đồng Chính

81. Mạc ban trưởng

2. Khai quyển

42. Nhai thượng

82. Thiên Giang ngục

3. Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu

43. Lộ thượng

83. Tháp hóa xa vãng Lai Tân

4. Nhập Tĩnh Tây huyện ngục

44. Trưng binh gia quyến

84. Tha tưởng đào

5. Thế lộ nan

45. Giải trào

85. Lai Tân

6. Tảo

46. Vãng Nam Ninh

86. Đáo Liễu Châu

7. Ngọ

47. Cảnh binh đảm trư đồng hành

87. Cửu bất đệ giải

8. Vấn thoại

48. Điệt lạc

88. Dạ bán

9. Ngọ hậu

49. Bán lộ tháp thuyền phó Ung

89. Đáo trưởng quan bộ

10. Vãn

50. Nam Ninh ngục

90. Tứ cá nguyệt liễu

11. Tù lương

51. Nạp muộn

91. Bệnh trọng

12. Nạn hữu xuy địch

52. Thính kê minh

92. Đáo Quế Lâm

13. Cước áp

53. Nhất cá đổ phạm "ngạnh" liễu

93. Nhập lung tiền

14. Học dịch kỳ

54. Hựu nhất cá

94. ?!

15. Vọng nguyệt

55. Cấm yên (Chỉ yên đích)

95. ?

16. Phân thuỷ

56. Dạ bán văn khốc phu

96. Đáo Đệ tứ chiến khu Chính trị bộ

17. Trung thu

57. Hoàng hôn

97. Chính trị bộ cấm bế thất

18. Đổ

58. Công kim

98. Mông ưu đãi

19. Đổ phạm

59. Thuỵ bất trước

99. Triêu cảnh

20. Nạn hữu Mạc mỗ

60. Ức bạn

100. Thanh minh

21. Nạn hữu nguyên chủ nhiệm L

61. Thế nạn hữu mẫn tả báo cáo

101. Vãn cảnh

22. Song thập nhật giải vãng Thiên Bảo

62. Lại sang

102. Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên

23. Tẩu lộ

63. Văn thung mễ thanh

103. Hạn chế

24. Mộ

64. Song thập nhất

104. Dương Đào bệnh trọng

25. Dạ túc Long Tuyền

65. Cảnh báo (Thập nhất nguyệt thập nhị nhật)

105. Bất miên dạ

26. Điền Đông

66. Chiết tự

106. Cửu vũ

27. Sơ đáo Thiên Bảo ngục

67. Lữ quán

107. Tích quang âm

28. Nạn hữu chi thê thám giam

68. Tảo tình

108. Độc Tưởng công huấn từ

29. Các báo: Hoan nghênh Uy-ki Đại hội

69. Việt hữu tao động (Ung báo, Xích đạo tấn 14-11)

109. Lương Hoa Thịnh tướng quân thăng nhậm phó tư lệnh

30. Tự miễn

70. Anh phóng Hoa đoàn

110. Tặng Tiểu Hầu (Hải)

31. Dã cảnh

71. Giải vãng Vũ Minh

111. Thu cảm

32. Chúc than

72. Bào Hương cẩu nhục

112. Nhân đỗ ngã

33. Quả Đức ngục

73. Trúc lộ phu

113. Trần khoa viên lai thám

34. Long An Lưu Sở trưởng

74. Ngục đinh thiết ngã chi sĩ-đích

114. Hầu chủ nhiệm ân tặng nhất bộ thư

35. Tảo giải

75. Công lý bi

115. Mông thượng lệnh chuẩn xuất lung hoạt động

36. Đồng Chính (thập nhất nguyệt nhị nhật)

76. Tân Dương ngục trung hài

116. Thu dạ

37. Nạn hữu đích chỉ bị

77. Ký Nê Lỗ

117. Tình thiên

38. Dạ lãnh

78. Đăng quang phí

118. Khán "Thiên gia thi" hữu cảm

39. Bang

79. Ngục trung sinh hoạt

119. Tức cảnh

40. Lạc liễu nhất chích nha

80. Quách tiên sinh

120. Kết luận

 

- - - - - - - - - - - - - -

“Một Vài Suy Nghĩ

Sau Khi Đọc Lại Tập Thơ Ngục Trung Nhật Ký”

Đỗ Nam Hải

 

Tường thuật từ Sài Gòn và chị Bảo Khánh ghi lại tại Sydney, Úc vì máy điện toán của anh bị công an tịch thu chưa trả lại.

Ngày 19/5/2008, nhân kỷ niệm 118 năm ngày sinh HCM, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia tại Hà Nội, VN đã tái bản tập thơ NGỤC TRUNG NHẬT KÝ hay NHẬT KÝ TRONG TÙ, được nói của HCM là tác giả viết khi bị quân Tưởng Giới bắt giam tại Quảng Tây, Trung Quốc từ 29/8/1942 đến 10/9/1943. TS Nguyễn Duy Hùng chịu trách nhiệm xuất bản và TS Nguyễn Minh Nghĩa chịu trách nhiệm nội dung.

Theo lời giới thiệu ở trang 7, tập thơ gồm hơn 100 bài thơ chữ Hán, phần cuối có ghi những sự kiện về quân sự và thời sự.

Tập thơ được cho là: “Một văn kiện lịch sử quan trọng, một tác phẩm văn học xuất sắc, có tác dụng giáo dục sâu sắc, phẩm chất và đạo đức cách mạng trên nhiều thế hệ….

 

 1- Tâm hồn của tác giả là một người Trung Hoa.

Bài “Song Thập Nhật” thực ra là “Song Thập Nhất”

(11/11, ngày chấm dứt Thế Chiến Thứ 1 (1914-1918))

Ngày 10/10/1911 1à lễ Quốc Khánh Trung Hoa Dân Quốc kỷ niệm cuộc nổi dậy ở Vũ Xương năm Tân Hợi, kẻ thù của CS và không liên hệ gì tới VN.

 

2- Bài “Kỷ niệm họ Hầu tặng một cuốn sách” trang 267…

Chủ nhiệm họ Hầu tặng một bộ sách (Người dịch: Đỗ Văn Hỷ)

 

Sách ngài Chủ nhiệm mới đưa sang,
Đọc đoạn, tinh thần chợt mở mang;
Còn vẳng bên tai
lời lãnh tụ,
Chân trời một tiếng sấm rền vang.

 

Hầu Chủ Nhiệm là Hầu Chí Minh, chủ nhiệm chính trị Chiến Khu 4, đã theo lệng Tưởng Giới Thạch thả HCM ra.

Là người nước ngoài ở tù mà còn được tặng sách? Tháng 1/1941, HCM về hang Bắc Bó, tháng 5/1941 đã làm lãnh tụ Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh), vậy còn lãnh tụ nào của HCM nữa đây? Đúng là câu chuyện của hai người Hoa chứ không phải người Việt.

3- Về tâm tư HCM, sao không thấy lo toan về chuyện đất nước?

Đọc cả tập thơ không thấy nói gì tới danh nhân, địa danh Việt Nam. Trong cuốn “Những Mẩu Truyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” do nxb Văn Học, Hà Nội, phát hành năm 2001, trang 105 và 107… của Trần Dân Tiên tức HCM kể chuyện:

“Đi liền 10 đêm và 5 ngày, cụ Hồ đến một thị trấn Trung Quốc, chưa kịp nghỉ chân thì chiều hôm đó cụ đã bị bắt và gian khổ lại bắt đầu. Quốc Dân Đảng giam cụ vào nhà lao CHS hơn 2 tuần, ngày thì mang gông, đêm đeo cùm. Trong khi cụ Hồ lê lết tấm thân mệt lử từ nhà giam này đến nhà giam khác, có lẽ những việc lớn đang dồn dập trong nước và trên thế giới, ai khuyên bảo đồng chí, ai giúp đỡ và đẩy mạnh việc tổ chức, có lẽ các nước Đồng Minh đã đổ bộ lên Đông Dương, có lẽ Phát-Nhật đã cắn nhau, có lẽ là các đồng chí trong đảng CS Đông Dương và các hội viên của Việt Minh đang đớn đau hỏi nhau cụ Hồ bị tai nạn gì? Lòng cụ Hồ rối như tơ vò vì phải ngồi im vô ích trong khi công việc đang đòi hỏi cụ, mà thời gian đi qua không chờ người….

Tóm lại là dù ở tù, HCM luôn lo âu về tình hình đất nước, các đồng chí trong đảng CS Đông Dương…”.

 

Thế thì thật vô lý, văn suôi thì thiết tha kể những mối lo gan ruột như thế mả sao trong tập thơ không hế thấy nói gì, dù chỉ 1 dòng tới những chuyện này???

Nếu HCM ở tủ Quảng Tây hơn 1 năm 8/1942-10/1943 mà viết cả tập thơ như vậy, sao khi ở tù Hồng Kông 6/1931-1/1933, gần 2 năm mà không thấy viết chữ nào cả!?

 

--------------------------------

 

Có người nghi ngờ, có người tin, có người cho là HCM lấy thơ ngưi

khác và viết thêm thơ mình vào, lập lờ đánh lận con đen...!?

Nhưng căn cứ vào những chứng cứ hiển nhiên,

HCM không thể là tác giả của Ngục Trung Nhật Ký gốc được.

 

Huyền Thoại thân mời quý thính giả đón nghe các audio truyện lịch sử ...

30 April, 2009